image banner
Thông tin sinh hoạt Chi bộ (Số 96 - Tháng 7/2021)

 

MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN THÁNG 7/2021

1. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Chuyên đề toàn khóa “Học tập và là theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.

2. Tiếp tục tuyên truyền kết quả kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV; tuyên truyền các nội dung được thảo luận, thông qua tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV; các nghị quyết được thông qua tại kỳ họp thứ hai, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV.

3. Tiếp tục tuyên truyền về công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 của Trung ương, của tỉnh trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang có nhiều diễn biến phức tạp. Tuyên truyền, quán triệt Kết luận số 250-KL/TU ngày 22/6/2021 của Thường trực Tỉnh ủy và Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về việc tăng cường công tác phòng, chống dịch COVID-19 và phát triển kinh tế trong tình hình mới bảo đảm mục tiêu cao nhất “An toàn - Ổn định trong trạng thái bình thường mới”; Thông báo số 08-TB/BCĐ ngày 26/6/2021 của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về việc triển khai kế hoạch tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19 diện rộng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Tích cực tuyên truyền thực hiện nghiêm thông điệp “5K” của Bộ Y tế và các biện pháp phòng, chống dịch bệnh của cơ quan chức năng; nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, tránh tâm lý chủ quan trong việc thực hiện các biện pháp phòng dịch, quyết tâm giữ bằng được địa bàn an toàn, ổn định, tuyệt đối không để bị động, bất ngờ về dịch bệnh.

4. Tuyên truyền kết quả phát triển kinh tế của tỉnh, của cơ quan, đơn vị 6 tháng đầu năm gắn với thực hiện chủ đề công tác năm 2021 “Giữ vững địa bàn an toàn và đà tăng trưởng trong trạng thái bình thường mới; đẩy nhanh tốc độ triển khai, xây dựng, và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy liên kết vùng”.

5. Tuyên truyền về Hội thi báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi năm 2021 Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh (Các hội thi cấp Cụm và cấp Đảng bộ Khối).

6. uyên truyền, quán triệt tới cán bộ, đảng viên, CCVC-LĐ Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội ban hành kèm theo Quyết định số 874-QĐ-BTTTT ngày 17/6/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Kết quả 05 năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tại Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh

Qua 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (sau đây gọi là Nghị quyết 04-NQ/TW). Với quyết tâm cao và cách triển khai thực hiện hiệu quả của các cấp ủy, tổ chức đảng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh đạt một số kết quả nổi bật:

Đảng ủy Khối đã chủ động bám sát chỉ đạo của Tỉnh ủy để xây dựng, triển khai thực hiện các văn bản nhằm đưa Nghị quyết số 04-NQ/TW vào triển khai tại Đảng bộ Khối. Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã ban hành Kế hoạch số 40-KH/ĐUK ngày 14/12/2016 về “Tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII)” để tổ chức hội nghị học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết cho cán bộ, đảng viên của Đảng bộ; Ban Chấp hành Đảng bộ Khối đã ban hành Chương trình hành động số 11-CTr/ĐUK ngày 10/4/2017 triển khai thực hiện trong toàn Đảng bộ. Kết quả, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối tổ chức hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết 04-NQ/TW cho 510 đại biểu là cán bộ chủ chốt, báo cáo viên, các đoàn thể trực thuộc Đảng ủy và cán bộ chủ chốt các chi, đảng bộ cơ sở. Ngay sau hội nghị, các cấp ủy cơ sở đã chủ động triển khai Nghị quyết của Trung ương đến toàn thể cán bộ, đảng viên của cơ quan, đơn vị, đồng thời xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đảng ủy Khối đảm bảo kịp thời, sát với tình hình thực tiễn tại cơ quan, đơn vị.

Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc công tác tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 gắn với thực hiện Chỉ thị 05, các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, quy định những điều đảng viên không được làm. Qua kiểm điểm đã làm rõ những hạn chế, yếu kém; chỉ rõ nguyên nhân, đề ra giải pháp và thời gian khắc phục.

Việc sớm triển khai thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW đã tạo sự chuyển biến tích cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nền nếp, tác phong công tác, thái độ ứng xử; nêu cao ý thức, trách nhiệm, nêu gương, tận tụy với công việc, phát huy dân chủ, thực hành tiết kiệm trong sử dụng tài sản công; củng cố và tăng cường niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; vai trò tiền phong, gương mẫu của tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, đoàn viên, hội viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh.

Công tác củng cố, kiện toàn tổ chức đảng được thực hiện kịp thời: Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung và thực hiện các quy chế, chương trình công tác toàn khóa, hàng năm được triển khai đảm bảo quy định. Việc chuyển giao, tiếp nhận, kiện toàn tổ chức đảng được thực hiện đồng bộ, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng ngành, cơ quan, đơn vị. Đảng ủy Khối đã phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành chuyển giao 15 tổ chức đảng ra ngoài phạm vi Đảng bộ Khối và tiếp nhận 17 tổ chức đảng ở đảng bộ các địa phương; thực hiện hợp nhất, chia tách, thành lập mới 11 tổ chức cơ sở đảng. Đến cuối tháng 5/2021, Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh có 62 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc, gồm 38 đảng bộ và 24 chi bộ cơ sở; 401 chi bộ, 14 đảng bộ bộ phận thuộc đảng ủy cơ sở với tổng số 5.032 đảng viên.

Công tác quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên theo hướng ngày càng chặt chẽ, cụ thể, hiệu quả hơn. Việc giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và Nhân dân nơi cư trú theo Quy định số 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị (nay là Quy định 213-QĐ/TW, ngày 02/01/2020) được thực hiện nghiêm túc; đa số đảng viên đã phát huy được tính tiền phong, gương mẫu, tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Việc rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng được thực hiện thận trọng, không để xảy ra khiếu nại, tố cáo. Việc đánh giá chất lượng, xếp loại đảng viên hằng năm đảm bảo nghiêm túc, chặt chẽ, nền nếp, khách quan, thực chất hơn.

Công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị được chú trọng; đã kịp thời khắc phục tình trạng chưa đạt chuẩn về trình độ lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo ở tất cả các chi, đảng bộ cơ sở. Từ 2016 - 2021, Đảng ủy đã tổ chức 37 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho đối tượng Đảng và đảng viên mới với tổng số 2.874 lượt học viên; 11 lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng và cập nhật kiến thức mới cho 1.200 lượt đội ngũ cấp ủy cơ sở và trực thuộc cơ sở; phối hợp với Trường Đào tạo cán bộ Nguyễn Văn Cừ tổ chức 21 lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho 1.422 học viên.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng được chú trọng; các cấp ủy thực hiện nghiêm túc, thường xuyên việc thẩm tra, xác minh, thẩm định, rà soát, kiểm tra hồ sơ đảng viên, hồ sơ cán bộ, kết luận về tiêu chuẩn chính trị phục vụ nhân sự đại hội Đảng, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, điều động, bố trí cán bộ; thẩm định tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác kết nạp đảng viên.

Xác định công tác kiểm tra, giám sát góp phần quan trọng chấn chỉnh, khắc phục các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Hằng năm, Ban Thường vụ, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối, các cấp ủy và UBKT các cấp trong Đảng bộ đã chủ động xây dựng và triển khai có hiệu quả chương trình kiểm tra, giám sát. Từ tháng 12 năm 2016 đến nay, Đảng ủy và Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối đã tiến hành kiểm tra 54 lượt tổ chức đảng, 07 lượt đảng viên và giám sát 149 lượt tổ chức đảng, 04 lượt đảng viên; thi hành kỷ luật 03 tổ chức đảng, 02 đảng viên với hình thức khiển trách. Các cấp ủy, UBKT Đảng ủy cơ sở đã tiến hành kiểm tra 743 lượt tổ chức đảng, 313 lượt đảng viên và giám sát 578 tổ chức đảng, 321 lượt đảng viên; thi hành kỷ luật 02 tổ chức đảng với hình thức khiển trách, 29 đảng viên (với hình thức khiển trách: 20, cảnh cáo: 08, cách chức: 01).

Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Khối xác định tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

1- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng; bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025; các nghị quyết của Trung ương, của cấp ủy Đảng các cấp về xây dựng Đảng.

2- Thể chế hóa nền tảng chính trị, chủ trương, nghị quyết… của Đảng thành chương trình, kế hoạch công tác cụ thể, sát thực tế, phù hợp với cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở nội dung nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá của tỉnh và Đảng ủy Khối, các cấp ủy, tổ chức đảng xác định, lựa chọn khâu đột phá trong triển khai thực hiện để nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống.

3- Tiếp tục rà soát, xây dựng tổ chức bộ máy, cán bộ thực sự tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ; cơ cấu đội ngũ công chức, viên chức hợp lý, đúng người, đúng việc; thực hiện tốt các khâu tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ, công chức. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu năng lực, kém phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp ủy, cơ quan, địa phương, đơn vị.

4- Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát; thông qua thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện, khắc phục, sửa chữa những sai sót, khuyết điểm. Chú trọng khen thưởng, biểu dương những tập thể, cá nhân có thành tích; nhân rộng mô hình hay, cách làm sáng tạo, những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trong thực hiện NQ TW 4 (khóa XII) gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

5- Công khai, minh bạch trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thực thi công vụ, đặc biệt trong các lĩnh vực: Công tác cán bộ, quản lý tài sản công, đất đai, quy hoạch... Phát huy vai trò của các đoàn thể, khắc phục tình trạng hành chính hóa trong hoạt động, hướng về cơ sở, gần dân, sát dân. Tích cực vận động, tập hợp các tầng lớp Nhân dân tham gia vào giám sát và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng cơ quan, đơn vị.

6- Làm tốt công tác kiểm soát thông tin trên không gian mạng. Chủ động định hướng, cung cấp thông tin thường xuyên, đột xuất, nhằm đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái, gây hoang mang, kích động, nói xấu, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền.

7- Nghiêm túc trong công tác phê bình và tự phê bình; khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Sau kiểm điểm, mỗi cá nhân, tổ chức phải có chương trình, kế hoạch hành động cụ thể sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm. Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu. Thực hiện có hiệu quả việc cấp ủy cấp trên gợi ý kiểm điểm đối với cấp ủy, lãnh đạo quản lý những nơi có vấn đề phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Ban Tổ chức Đảng ủy Khối

TIẾP TỤC THỰC HIỆN CHỈ THỊ 05: HỌC TẬP, LÀM THEO BÁC VÀ NÊU GƯƠNG

Tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, ngày 18/5/2021, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Kết luận 01-KL/TW về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (Kết luận 01). 

Trong phần nhiệm vụ giải pháp thực hiện, Kết luận nêu rõ: “Để việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới đạt hiệu quả thiết thực, cần phải quán triệt, tập trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên”. Đây là các nhiệm vụ trọng tâm, phương hướng cơ bản trong thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị.

Nội dung, nhiệm vụ học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Thực hiện Kết luận 01, về nội dung, nhiệm vụ học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cần quan tâm đến các điểm chính sau:

Trước hết, cần quán triệt và tạo được sự thống nhất trong nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, được hình thành trong quá trình vận dụng các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng giải phóng dân dân tộc ở Việt Nam và các nước thuộc địa đầu thế kỷ XX. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Từ tư tưởng ban đầu “trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới”, trên nền tảng “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tiếp tục phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”, định hướng lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được vận dụng và phát triển sáng tạo, với nhiều nội dung mới, cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động trong công cuộc đổi mới sáng tạo của Đảng và nhân dân ta hiện nay. Bởi vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là những bài học chính trị đơn thuần, một chương trình học phải trải qua để có chứng chỉ, bằng cấp, mà quan trọng nhất là phải hiểu biết sâu sắc các nguyên lý cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp luận khoa học và cách mạng Hồ Chí Minh, xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng lý luận vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn công tác, sản xuất, chiến đấu, xây dựng Đảng… Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tiễn, tăng cường tổng kết thực tiễn, cùng với nghiên cứu lý luận để tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng hệ tưởng lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, định hướng lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần thiết phải thấy rõ sự thống nhất hữu cơ của ba bộ phận cấu thành này trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ sự chắt lọc những giá trị tư tưởng, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, các nguyên lý lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, trải nghiệm qua hoạt động thực tiễn cách mạng vô cùng phong phú của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự tiếp thu những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của văn hóa phương Đông và phương Tây, của tư tưởng đạo đức cộng sản, hình thành nên những giá trị đạo đức Hồ Chí Minh, như vị trí, vai trò của đạo đức, những chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người Việt Nam mới và những nguyên tắc thực hành đạo đức. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của Người. Tiếp theo, sự thống nhất giữa tư tưởng và đạo đức trong con người Hồ Chí Minh đã tạo nên phong cách Hồ Chí Minh, từ phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, phong cách giao tiếp, đến phong cách sống hài hòa, gắn bó với thiên nhiên, với mọi người, “thương yêu tất cả chỉ quên mình”. Bởi vậy, học tập Bác cần có nội dung toàn diện, đồng bộ, cả tư tưởng, đạo đức, phong cách. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là để xây dựng, rèn luyện lý tưởng, đạo đức, lối sống, nên không phải chỉ một lần, một lúc, trong một công việc, mà phải thường xuyên liên tục, lâu dài, tự giác, trong công việc hàng ngày, để “lòng ta trong sáng hơn” như nhà thơ Tố Hữu đã viết.

Trong học tập, cần nắm vững nội dung và hiểu rõ những giá trị, ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đó là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, của cách mạng Việt Nam được cụ thể hóa trong mỗi giai đoạn cách mạng, đồng thời là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy nội lực, hình thành và nuôi dưỡng ý chí, khát vọng xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, sánh vai với cường quốc năm châu. Cũng như trong thực tiễn lịch sử các giai đoạn trước, hiện nay tư tưởng Hồ Chí Minh là sức mạnh tinh thần to lớn, giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thử thách hoàn thành mục tiêu “kép”: phòng chống dịch bệnh COVID-19 và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có tư tưởng về xây dựng Đảng cách mạng chân chính, tư tưởng tất cả vì nhân dân của Hồ Chí Minh. Học và làm theo Bác không chỉ để mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân, mà qua đó, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng tiêu cực, xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn nữa giữa Đảng với dân, để Đảng xứng đáng “là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” như lời căn dặn trong bản Di chúc bất hủ của Bác.

Làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Việc làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là thực hiện học đi đôi với hành trong tư tưởng của Người. Cần có nội dung, phương thức, phương pháp phù hợp để việc làm theo có hiệu quả thiết thực, được tiến hành thường xuyên, liên tục, tránh căn bệnh hình thức.

Chủ trương học tập gắn liền với làm theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có từ rất sớm và đã góp phần làm nên những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử. Ngay sau khi Bác mất (ngày 2/9/1969), Đảng và Nhà nước ta đã đề ra khẩu hiệu hành động rất sát thực là “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Khẩu hiệu đó đã lôi cuốn sự tham gia của tất cả các tầng lớp trong xã hội, trong các phong trào “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Thi đua hai tốt”…, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến “chống Mỹ, cứu nước”; giúp đất nước vượt qua những khó khăn, những tình huống ngặt nghèo trước đổi mới; thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong hơn 35 năm qua… Trong việc học và làm theo Bác, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị 06-CT/TW ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị khóa X lần đầu tiên yêu cầu về việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thực tiễn, kết quả thực hiện cuộc vận động đã khẳng định yêu cầu và sự cần thiết phải gắn bó giữa học tập và làm theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các Chỉ thị 03- CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII đã thống nhất và nhấn mạnh thêm yêu cầu phải gắn bó giữa học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nhắc lại bài học về việc làm theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm qua, để thấy rõ vai trò to lớn và trách nhiệm tổ chức thực hiện có hiệu quả việc làm theo Bác trong giai đoạn mới.

Nội dung làm theo đầu tiên và cơ bản nhất của tổ chức đảng, chính quyền đoàn thể chính trị ở các cấp là gắn học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị; trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xây dựng chương trình hành động cụ thể, sát hợp thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ở cơ quan, đơn vị địa phương, trong đó, coi việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nguồn lực, động lực quan trọng để thực hiện. Quan tâm đến việc thực hiện có hiệu quả các khâu đột phá chiến lược, tập trung giải quyết 6 nhóm vấn đề trọng tâm trong Nghị quyết Đại hội XIII; từng địa phương cơ quan đơn vị phát hiện, giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc trong thực tiễn để thúc đẩy nhanh hơn việc thực hiện Nghị quyết.

Trong tổ chức thực hiện, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần đồng bộ giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Quan tâm đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phê phán, xử lý nghiêm những việc làm sai trái, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, liên tục, không ngừng, không bị tác động bởi bất cứ tổ chức, cá nhân có hành vi không lành mạnh nào.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần phải gắn với chức trách, nhiệm vụ, vị trí việc làm cụ thể, không thể chung chung. Nội dung học tập có thể chung, giống nhau, nhưng liên hệ và việc làm cần phải cụ thể gắn với nhiệm vụ của từng người. Cấp ủy, tổ chức đảng phải hướng dẫn và tổ chức đăng ký làm theo Bác của mỗi người, phù hợp với công việc của họ, có kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng kịp thời… Cùng với tăng cường giáo dục nhận thức về những giá trị đạo đức, tinh thần, văn hóa cho cán bộ, đảng viên, công chức, cần nâng cao tính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực, đồng thời khuyến khích, cổ vũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của nhân dân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức biên soạn những tài liệu phù hợp để vừa tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, vừa hướng dẫn việc làm theo, cung cấp tài liệu cho các chi bộ triển khai thực hiện từ cơ sở và đẩy mạnh tuyên truyền trong xã hội…

Coi trọng trách nhiệm nêu gương

Coi trọng trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về “muốn người ta theo mình thì phải làm gương trước” và “một tấm gương sáng bằng hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nêu gương vừa là trách nhiệm vừa là giải pháp quan trọng để vận động quần chúng nhân dân theo Đảng làm cách mạng. Nêu gương là giải pháp để hướng dẫn mọi người thực hiện các nhiệm vụ đặt ra. Nêu gương tạo nên mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa cán bộ với nhân viên, đảng viên với quần chúng và qua đó góp phần xây dựng Đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương trong sạch, vững mạnh. Vai trò của nêu gương rất lớn. Vì vậy, cần đặc biệt quan tâm đến vai trò nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, như Kết luận 01 của Bộ Chính trị đã nêu ra.

Đảng ta đã xác định nêu gương là một trong 5 phương thức lãnh đạo của Đảng. Nêu gương là thực hiện vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, gương mẫu “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau”, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” trong Đảng và từ trong Đảng lan tỏa ra toàn xã hội. Tại Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Quy định số 08-QĐi/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Quy định 08 xác định nội dung nêu gương gồm 8 điểm về “xây” và  8 điểm về “chống”, trong đó nhấn mạnh các mối quan hệ với tổ chức, với mình và với nhân dân. Thực hiện Quy định 08 về trách nhiệm nêu gương là yêu cầu chung đối với tất cả cán bộ, đảng viên, công chức trong mọi công việc, trong các mối quan hệ, trong đó có việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thực hiện Kết luận số 01, về nội dung nêu gương cần nhấn mạnh thêm một số điểm sau:

Một là, cần đề cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong học tập và làm theo Bác.

Hơn ở đâu hết, trong việc nêu gương học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là hết sức quan trọng để cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân noi theo. Nội dung nêu gương của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp đã được Kết luận 01 nêu khá cụ thể, bao gồm: “…phải thể hiện tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể; luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, toàn diện, công tâm, công khai, minh bạch, chính xác, chống cục bộ địa phương, bè phái trong công tác cán bộ. Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, mẫu mực về nhân cách, lối sống; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành; không tham nhũng, không bị chi phối bởi lợi ích nhóm, không để người nhà, người thân lợi dụng vị trí công tác để vụ lợi. Nghiêm túc tự phê bình và phê bình, thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh”.

Hai là, nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần cụ thể, thiết thực, thể hiện trong các công việc sau:

Cán bộ lãnh đạo cần nêu gương đầu, thể hiện trong thái độ của mình đối với việc học tập và thực hiện Chỉ thị, Kết luận của Trung ương về học tập và làm theo Bác. Cùng một buổi học tập chuyên đề, sinh hoạt tư tưởng về thực hiện Chỉ thị, cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thực sự nghiêm túc, thực sự quan tâm, thực sự gương mẫu sẽ có tác dụng rất tích cực đến chất lượng học tập cũng như sinh hoạt chuyên đề và ngược lại.

Cán bộ, đảng viên nêu gương, làm trước trong đăng ký và thực hiện các nội dung đăng ký làm theo Bác. Một công việc cụ thể được làm trước bởi cán bộ lãnh đạo, cán bộ, đảng viên vì lợi ích chung không chỉ mang lại lợi ích lớn cho tập thể, cơ quan, đơn vị, mà còn tác dụng kích thích, thúc đẩy, lan tỏa trong tập thể, góp phần hình thành các phong trào tự giác học tập và làm theo Bác. Nội dung cụ thể của nêu gương cần thực hiện theo Quy định 08, bao gồm 8 điểm trong xây và 8 điểm trong chống.

Ba là, trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần chú trọng đến xây bao gồm:

Đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu, nắm vững hệ thống các nguyên tắc cơ bản và kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có lập trường tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, chính kiến rõ ràng trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, nhạy cảm. Chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.

 Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, của quốc gia - dân tộc và mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Không làm bất cứ việc gì có hại cho Đảng, cho đất nước và nhân dân. Lấy ấm no, hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Đối với công việc được giao là thực hành phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, hiệu quả; thực sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể. Chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả công tác cải cách hành chính, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ.

Sẵn sàng nhận và nỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ khi được phân công. Tâm huyết, tận tuỵ với công việc. Tích cực giải quyết dứt điểm các vấn đề phức tạp, bức xúc, tồn đọng kéo dài; chủ động, kịp thời xử lý có hiệu quả các tình huống khẩn cấp, đột xuất, bất ngờ trong địa phương, lĩnh vực mình phụ trách.

Tích cực thực hiện quy định về phân cấp, phân quyền và kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chủ động thực hiện chủ trương thí điểm của Trung ương; khuyến khích mô hình, cách làm mới, hiệu quả. Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; tìm tòi, đổi mới, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.

Giữ vững nguyên tắc, dân chủ, công tâm, khách quan, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ kế cận. Chủ động, tích cực phát hiện, thu hút, trọng dụng người có đức, có tài, khát khao cống hiến. Bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp của Đảng, vì lợi ích quốc gia - dân tộc.

Đối với bản thân, cần nêu gương trong không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Mẫu mực về đạo đức, lối sống. Thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành.  Nghiêm túc thực hành tự phê bình và phê bình; thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh; không tranh công đổ lỗi. Dũng cảm nhận khuyết điểm và trách nhiệm. Chủ động xin từ chức khi thấy mình không còn đủ điều kiện, năng lực, uy tín để thực hiện nhiệm vụ.

Mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất

Về mối quan hệ giữa học tập, làm theo và nêu gương trong thực hiện Kết luận 01 của Bộ Chính trị khóa XIII, cần chú trọng những nội dung sau:

Về nhận thức, cần thấy rõ mối quan hệ hữa cơ giữa học tập, làm theo và nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và hành động, giữa học và hành, giữa lời nói và việc làm, thể hiện trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu từ Trung ương đến cơ sở. Cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không là việc học tập chính trị đơn thuần, mà là nghiên cứu, quán triệt hệ thống các quan điểm lý luận, tư tưởng nền tảng của Đảng, vận dụng phương pháp luận Hồ Chí Minh để vào giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Quán triệt quan điểm học đi đôi với hành, học tập để vận dụng và làm theo. Học tập không phải là tầm chương, trích cú. Làm theo không là giáo điều, máy móc, nguyên xi, bắt chước mà là sự vận dụng sáng tạo những quan điểm lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp luận Hồ Chí Minh trong điều kiện mới. Tổng kết thực tiễn phong phú của công cuộc đổi mới kết hợp với nghiên cứu lý luận để phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, làm theo tư tưởng, phương pháp Hồ Chí Minh một cách thiết thực nhất trong trong giai đoạn hiện nay.

Thực sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động nói đi đôi với làm, trong đó nêu gương vừa là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng, vừa là giải pháp để tổ chức thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với công việc và mối quan hệ gắn bó giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân, theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

(Theo tuyengiao.vn)

NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Thế lực thù địch thường tung những luận điệu xuyên tạc cho rằng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà nước ta đang xây dựng là một nền KTTT "méo mó, không giống ai". Thế nhưng, thực tiễn cho thấy nền kinh tế thị trường tại Việt Nam mà họ tìm mọi cách phủ nhận ấy lại đang là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Thời điểm khó khăn do dịch Covid-19 hiện nay càng giúp chúng ta cũng như những nhà nghiên cứu kinh tế và người dân trên thế giới nhận thức rõ hơn những điểm nổi trội của nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam.

Kinh tế thị trường tự do đầy khuyết tật 

Từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh, về tổng thể, thế giới đã chuyển hóa từ bối cảnh đối đầu giữa hai hệ thống XHCN và tư bản chủ nghĩa (TBCN) sang một thế giới toàn cầu hóa, chấp nhận sự đa dạng và cùng tồn tại hòa bình, hợp tác, xen lẫn cạnh tranh gay gắt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Về cuộc khủng hoảng các mô hình phát triển kinh tế, trong chuyên luận “Covid-19: Cuộc tái cấu trúc vĩ đại” tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), giáo sư Klaus Schwab, nhà sáng lập và Chủ tịch điều hành WEF nhấn mạnh: Đại dịch Covid-19 đang đào sâu hơn những chia rẽ, bất bình đẳng và phân chia thế giới thành thời kỳ tiền Covid-19 và hậu Covid-19. Trong kỷ nguyên hậu Covid-19, không chỉ Mỹ mà là toàn bộ chủ nghĩa tư bản (CNTB) thế giới sẽ phải thay đổi mô hình phát triển trong trật tự thế giới đa cực. Năm 2021 là năm bản lề, năm quan trọng đối với tương lai và thế giới phải hành động để tương lai nền kinh tế và xã hội của chúng ta cần linh hoạt, bao trùm hơn và bền vững hơn; thúc đẩy quá trình chuyển đổi công nghiệp một cách có trách nhiệm; tăng cường quản trị toàn cầu, đạt tiến triển trong nỗ lực trung hòa khí thải carbon; hướng đến các hệ thống kinh tế và xã hội công bằng hơn, tạo ra đủ việc làm nhằm xây dựng một xã hội hòa nhập hơn...

Trước đó, Báo cáo trung tâm tại Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2020 cũng đã từng khuyến cáo, CNTB đang đứng trước ngã rẽ lịch sử, trong đó đã đến lúc phải đổi mới mô hình phát triển sang hướng toàn diện, có trách nhiệm xã hội hơn, giải quyết tốt hơn các vấn đề xóa đói giảm nghèo, chống tham nhũng và bảo vệ môi trường. Trong đó, các công ty tư nhân tự coi mình là người được xã hội ủy thác và hoạt động không chỉ nhằm thu được lợi nhuận kinh tế lớn, mà còn phải hướng tới khắc phục hậu quả tiêu cực đối với xã hội và môi trường, đáp ứng tốt các quyền lợi hợp pháp và nhu cầu sống của người lao động.

Trên thực tế, khủng hoảng chu kỳ, sự suy thoái kinh tế cả trong quá khứ và hiện nay đã làm phơi bày mặt trái của KTTT tự do, cả về sự đầu cơ quá mức, về thất nghiệp, chênh lệch khoảng cách giàu-nghèo và những bất công xã hội.

Thậm chí, tại nước Mỹ, nơi có nền kinh tế thị trường TBCN phát triển nhất thế giới, thì cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama đã phải thừa nhận: “Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm 2008 cho thấy đã qua rồi thời kỳ nước Mỹ hành động một mình mà không cần phải lắng nghe ai”. Cũng thời điểm này, lãnh đạo nhiều nước có KTTT phát triển khác, như: Anh, Pháp, Đức, Italy... cũng lên tiếng phê phán những sự ngây thơ, tin tuyệt đối vào khả năng tự điều chỉnh của KTTT tự do. Chính trị gia Bernie Sanders của Đảng Dân chủ, trong cuộc chạy đua ứng viên tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2016 cho rằng: “Mô hình KTTT Mỹ hiện hành không thể giải quyết được triệt để những vấn đề của nước Mỹ, trước hết liên quan đến an sinh xã hội, giáo dục, y tế và bất công về giàu nghèo...”.

Thực tế cho thấy, các cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, khủng hoảng năng lượng, lương thực, các vấn đề nóng bỏng về biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường, an ninh phi truyền thống và dịch bệnh... đã và đang diễn ra dày đặc hơn chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của thế giới hiện hành nói chung, của KTTT tự do của CNTB nói riêng. Do đó, chỉ có những ai thiếu tầm nhìn, hoặc cố tình nói ngược mới ca ngợi một chiều CNTB.

Mối quan hệ giữa “động cơ” và “bánh lái”

Xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN là phù hợp với xu hướng và yêu cầu thực tiễn phát triển KTTT trên thế giới. Bởi lẽ, thực tế đã, đang và sẽ ngày càng cho thấy, dù ở đâu và thời đại nào, dù chế độ và thể chế chính trị nào, song mọi mô hình KTTT muốn thành công đều phải ngày càng hội tụ vào mục tiêu cao nhất và xuyên suốt là vì phát triển đất nước bền vững và đáp ứng ngày càng tốt hơn khát vọng hạnh phúc cho người dân của quốc gia mình.

Không có bất kỳ mô hình kinh doanh và nhà nước nào ngoại lệ với đổ vỡ, khủng hoảng kinh tế, kể cả các cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. Thế giới đã thấy rõ ý nghĩa, hiệu quả của việc phải kết hợp cả bàn tay nhà nước và bàn tay thị trường trong một mô hình nhà nước kiểu mới để bảo đảm tính bền vững và hạn chế những khuyết tật của KTTT. Các quốc gia hiện nay nhìn chung đều đề cao yêu cầu phát triển bền vững, tăng trưởng xanh. Mà có thể thấy, đây đều là những vấn đề Đảng, Nhà nước ta nhấn mạnh khi xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.

Khi áp dụng KTTT để phát triển đất nước là Đảng ta đã sáng suốt áp dụng một thành tựu của nhân loại trong cách thức phát triển kinh tế, nhưng đồng thời gắn thêm định hướng XHCN để bảo đảm xã hội sẽ phát triển bền vững, nhân văn trong nền KTTT ấy. Đó cũng không khác gì mối quan hệ giữa "động cơ" và "bánh lái" của một con tàu. 

Chúng ta không bao giờ được quên mục tiêu phát triển nền kinh tế là để làm gì. Trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có...”. Đó cũng chính là những luận giải để chúng ta thấy rõ hơn mục tiêu khi xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, từ đó tạo cơ sở vật chất cho CNXH.

Một mô hình luôn được bổ sung, hoàn thiện

Để bảo đảm xây dựng nền KTTT phát triển, nhưng vẫn bảo đảm định hướng XHCN, các văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định và làm rõ hơn những nét đặc thù quan trọng trong mô hình KTTT định hướng XHCN là: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước... Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Nền KTTT định hướng XHCN sẽ được hoàn thiện trong một quá trình dài và việc văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định “bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước” là cần thiết, tạo sự linh hoạt và vận dụng hiệu quả nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong chỉ đạo, điều hành thực tiễn của Đảng trước mọi biến động nhanh, khó lường của thế giới. 

Về phát triển kinh tế thời gian tới theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, các cơ quan chức năng đang tiếp tục xem xét, bổ sung và làm rõ hơn cơ chế quản lý nhà nước. Trong đó, quản lý nhà nước phải phù hợp với các yêu cầu, quy luật và quy trình của KTTT, cũng như với các điều khoản hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã cam kết. Điều này là cần thiết để cơ chế thị trường được thực thi đầy đủ, bảo đảm uy tín chính trị, niềm tin thị trường và khai thác các cơ hội mới từ các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang và sẽ tham gia, phòng tránh lợi ích nhóm từ việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền tư nhân.

Đặc biệt, chức năng nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước đang từng bước được bổ sung, làm rõ hơn, bao gồm việc chủ động dự báo và ngăn chặn, xử lý các khuyết tật, tác động mặt trái và khủng hoảng chu kỳ, vốn thuộc bản chất của KTTT (như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh thiếu lành mạnh, phân hóa giàu nghèo và coi nhẹ các vấn đề y tế, môi trường, xã hội...); nâng cao chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế và doanh nghiệp; phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ; cải thiện ô nhiễm môi trường và quản lý, điều tiết thị trường, khoảng cách giàu nghèo và chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác; chống lại sự xuống cấp văn hóa, đạo đức xã hội, sự diễn biến phức tạp của tội phạm và các tệ nạn xã hội, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở nước ta, Đảng ta luôn mang tinh thần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc những thành tựu mới của nhân loại để nền KTTT định hướng XHCN của chúng ta luôn tươi mới, luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

Từ thực tiễn trong nước và quốc tế những năm qua, có thể thấy việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN là phù hợp với thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Đây là vấn đề có tính nền tảng mà mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần hiểu đúng, để xây chắc niềm tin.

Theo qdnd.vn

Hỏi: Chi bộ chúng tôi đang thực hiện công tác phát triển đảng cho một cảm tình đảng và đã tiến hành xác minh lý lịch. Theo chúng tôi hiểu, căn cứ Hướng dẫn số 01-HD/TW, ngày 20 tháng 9 năm 2016 của Ban Bí thư thì ngoài bản thân cảm tình đảng, người cần xác minh là “cha, mẹ đẻ, cha, mẹ vợ (chồng) hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng bản thân; vợ hoặc chồng, con đẻ của người vào Đảng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”, nhưng khi đưa hồ sơ lên đảng ủy thì đảng ủy yêu cầu phải xác minh cả anh, chị, em ruột của bản thân cảm tình đảng và bên vợ của người đó. Xin hỏi, yêu cầu này có đúng không? Chi bộ nên thực hiện như thế nào?

Đáp: Tại điểm 3, mục 3.4 Hướng dẫn số 01-HD/TW, ngày 20 tháng 9 năm 2016 của Ban Bí thư “Một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng” có nêu:

a) Những người cần thẩm tra về lý lịch gồm:

- Người vào Đảng;

- Cha, mẹ đẻ, cha, mẹ vợ (chồng) hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng bản thân; vợ hoặc chồng, con đẻ của người vào Đảng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (sau đây gọi chung là người thân).

c) Phương pháp thẩm tra, xác minh

Nếu người vào Đảng có một trong các trường hợp sau đây đang là đảng viên: cha, mẹ đẻ, anh, chị, em ruột, con đẻ và trong lý lịch người vào Đảng đã khai đầy đủ, rõ ràng, trung thực theo quy định thì không phải thẩm tra, xác minh. Nếu vợ (chồng) người vào Đảng đang là đảng viên hoặc có một trong các trường hợp sau đây đang là đảng viên: cha, mẹ đẻ, anh, chị, em ruột và trong lý lịch của người vào Đảng đã khai đầy đủ, rõ ràng, trung thực theo quy định thì không phải thẩm tra, xác minh bên vợ (chồng)….

Như vậy, anh, chị, em ruột của người vào Đảng hoặc anh, chị, em ruột của vợ (chồng) người vào Đảng không phải là đối tượng cần thẩm tra về lý lịch; tuy nhiên, nếu một trong những trường hợp vừa nêu đang là đảng viên thì chi bộ có thể đến tổ chức đảng đang quản lý đảng viên để xác nhận và đối chiếu lý lịch. Chi bộ nên liên hệ trực tiếp ban tổ chức Đảng ủy cấp trên cơ sở để được hướng dẫn liên quan đến trường hợp cụ thể nêu trên.

Một số trường hợp cụ thể, cấp có thẩm quyền sẽ hướng dẫn riêng.

Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang online: 9
  • Hôm nay: 503
  • Trong tuần: 12 208
  • Tất cả: 1290354
ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH QUẢNG NINH
Người chịu trách nhiệm:  Tầng 6, Trụ sở Liên cơ quan Số 4, Phường Hồng Hà - Thành phố Hạ Long - Tỉnh Quảng Ninh.
 Điện thoại: 080.33205 - Fax: 080.33205  Email:vp.duk@quangninh.gov.vn  
ỨNG DỤNG SỔ TAY ĐẢNG VIÊN ĐIỆN TỬ

   
Bản đồ trực tuyến