I. MỘT
SỐ ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN THÁNG 07/2022
1. Tuyên truyền, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức đại hội chi bộ trực
thuộc đảng bộ cơ sở nhiệm kỳ 2022 - 2025 bảo đảm đúng quy trình, quy định; đẩy
mạnh các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng đại hội.
2. Tiếp tục tuyên truyền các
luật, nghị quyết quan trọng đã được thông qua tại
Kỳ họp thứ
8, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV, nhiệm kỳ 2021 - 2026.
3. Tuyên
truyền kết quả phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của cơ quan, đơn vị trong
6 tháng đầu năm gắn với thực hiện chủ đề công tác năm 2022 của tỉnh về “Thích ứng an toàn, linh hoạt,
kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19; giữ vững đà tăng trưởng; phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao”
và chủ đề công tác năm 2022 của Đảng bộ Khối các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh về “Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch COVID-19; tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát và quản lý đảng viên”. Tập trung cao nhất
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu đã đề ra
tại Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 25/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “phương hướng, nhiệm vụ năm
2022”.
4.
Tích cực thông tin, tuyên truyền về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo tinh
thần Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về đẩy mạnh
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy
lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
5. Tiếp tục triển khai thực
hiện nghiêm túc, hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị
khoá XIII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh và Chỉ thị số 16-CT/TU
ngày 15/9/2021 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Kết luận số 01-KL/TW gắn với thực hiện chuyên đề năm 2022 “Học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ”.
6. Chủ động thông tin tuyên
truyền, nắm bắt, định hướng tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên, CCVC-LĐ; tích
cực tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đồng thời đấu tranh, phản
bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch.
7. 7. Tuyên truyền, phổ biến,
quán triệt các văn bản: (1) Nghị quyết số
18-NQ/TW, ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá XIII về "tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất,
tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao"; (2) Nghị quyết số 19-NQ/TW,
ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045; (3) Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16/6/2022 của Ban
Chấp hành Trung ương Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong
giai đoạn mới; (4) Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16/6/2022 của Ban Chấp
hành Trung ương Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XIII về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới; (5) Quy định số 67-QĐ/TW
ngày 02/6/2022 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ
máy, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; (5) Kế hoạch số 82-KH/ĐUK ngày 20/6/2022 của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối
về nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện Đề án tiếp tục đổi mới phương
thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Khối các cơ quan và
doanh nghiệp tỉnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
8. Tuyên truyền kỷ niệm
các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh trong tháng 7/2022: 110
năm Ngày sinh đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (09/7/1912 - 09/7/2022); 75
năm ngày Thương binh, liệt sĩ Việt Nam (27/7); 55 năm ngày Binh đoàn Than ra trận
(30/7); 92 năm ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng (01/8); tuyên truyền Đại hội đại biểu Hội Cựu chiến
binh Khối các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh Quảng Ninh lần thứ III, nhiệm kỳ
2022-2027...
II. ĐỀ
CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 110 NĂM NGÀY SINH ĐỒNG CHÍ TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN VĂN CỪ
(09/7/1912 – 09/7/2022)
1.
Khái lược tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh
ngày 09/7/1912 trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống khoa bảng ở
làng Phù Khê, xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, nay là phường Phù Khê, thành phố Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh, là hậu duệ đời thứ 17 của đại thi hào - danh nhân văn hoá
thế giới Nguyễn Trãi.
Năm 1927, Đồng chí tham gia
tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; năm 1928, tham gia vào các phong
trào vận động quần chúng đứng lên đấu tranh chống sự áp bức bóc lột của đế quốc
và bè lũ tay sai. Vì những hoạt động này, Đồng chí bị đuổi học giữa khóa.
Cuối
năm 1928, thực hiện chủ trương “vô sản hóa” của Kỳ bộ Thanh niên Bắc Kỳ, đồng
chí Nguyễn Văn Cừ (lúc này lấy tên là Phùng) ra mỏ Vàng Danh làm phu cuốc than
để vừa rèn luyện, vừa thâm nhập trong phong trào công nhân, giác ngộ công nhân.
Tháng 6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, Đồng chí trở thành đảng viên của
Đảng và được phân công phụ trách các chi bộ ở Cẩm Phả, Cửa Ông.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời (tháng 2/1930), Đồng chí được cử là Bí thư đặc khu Hòn Gai - Uông
Bí. Đồng chí đã lãnh đạo phong trào cách mạng ở vùng mỏ phát triển mạnh mẽ;
trực tiếp tổ chức và chỉ đạo công nhân toàn vùng mỏ đấu tranh nhân ngày Quốc tế
lao động 1/5/1930, cờ đỏ búa liềm được cắm trên đỉnh núi Bài Thơ (Hòn Gai), thị
trấn Cẩm Phả và nhiều nơi khác.
Tháng 02/1931, trên đường
đi công tác từ Cẩm Phả về Hòn Gai, Đồng chí bị thực dân Pháp bắt, đưa về giam ở
nhà tù Hỏa Lò; bị kết án tù khổ sai và bị đày đi Côn Đảo.
Năm
1936, trước áp lực của các cuộc đấu tranh mạnh mẽ của Nhân dân ta và phong trào
Mặt trận nhân dân Pháp, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và một số tù chính trị Côn Đảo
được trả tự do. Đồng chí về Hà Nội, tìm bắt liên lạc với tổ chức Đảng, lập ra
Ủy ban sáng kiến, có vai trò như Xứ ủy lâm thời Bắc Kỳ. Tại Hội nghị Trung ương
Đảng tháng 9/1937, Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được
cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 3/1938, tại Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng;
tháng 7/1939, Đồng chí viết tác phẩm “Tự chỉ trích” để đấu tranh tự phê bình và
phê bình trong Đảng, chấn chỉnh những tư tưởng lệch lạc, sai trái, thực hiện
đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng. Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ
hai bùng nổ, Đồng chí đã chỉ đạo đưa Đảng rút vào hoạt động bí mật và tích cực
chuẩn bị cho việc chuyển hướng chỉ đạo cách mạng. Tháng 11/1939, trên cương vị
Tổng Bí thư của Đảng, Đồng chí triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ
6 tại Bà Điểm (Gia Định), quyết định việc thay đổi chiến lược cách mạng và
thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân
chủ thống nhất Đông Dương.
Giữa lúc phong trào cách
mạng của dân tộc đang bước vào thời kỳ mới, ngày 18/1/1940, đồng chí Nguyễn Văn
Cừ bị địch bắt tại đường Nguyễn Tấn Nghiêm, thành phố Sài Gòn.
Ngày 23/11/1940, sau khi
khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ, thực dân Pháp khép đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào tội đã
thảo ra “Nghị quyết thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”,
“Chủ trương bạo động”, là người có trách nhiệm tinh thần trong cuộc Khởi nghĩa
Nam Kỳ và kết án tử hình Đồng chí. Ngày 28/8/1941, Đồng chí anh dũng hy sinh
tại trường bắn Ngã Ba Giồng, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, thành phố Sài Gòn.
Với 29 tuổi đời, hơn 13 năm
tham gia cách mạng, 7 năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc, hơn hai năm làm
Tổng Bí thư của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã có những cống hiến to lớn
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.
2. Những cống hiến to lớn
của đồng chí Nguyễn Văn Cừ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
2.1. Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Cừ với sự thay đổi chiến lược, tạo ra bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt
Nam
Khi
nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần, nhận thấy tình hình quốc tế đang có
những chuyển biến bất lợi cho cách mạng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã sớm đặt
vấn đề thay đổi chiến lược của Đảng. Đồng chí đã viết một số bài đăng trên báo
Dân chúng như: “Chung quanh vấn đề Nhật chiếm Hải Nam”; “Cùng ông Nguyễn Văn
Sâm, chủ nhiệm báo Tự do”… Trong các bài báo đó, Đồng chí đã phân tích tình
hình, vạch rõ nguy cơ chiến tranh phát xít ở châu Á và Đông Dương, đồng thời
kêu gọi nhân dân đẩy mạnh đấu tranh hơn nữa để chống chiến tranh xâm lược của
chủ nghĩa phát xít. Đầu tháng 9/1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ triệu tập và chủ
trì Hội nghị mở rộng Xứ ủy Bắc Kỳ, phổ biến tình hình và quyết định rút một số
cán bộ vào hoạt động bí mật, phân công một số cán bộ Xứ ủy và thành ủy Hà Nội
đi xây dựng căn cứ ở các địa bàn chiến lược, chuẩn bị cơ sở cho cuộc đấu tranh
vũ trang khi có điều kiện.
Ngày 6/11/1939, hai tháng
sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ triệu
tập Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia
Định), đã phân tích sâu sắc tính chất chiến tranh thế giới thứ hai, những chính
sách của đế quốc Pháp, thái độ các giai cấp, tầng lớp xã hội và vạch ra đường lối
chính trị của cách mạng Việt Nam trước tình hình mới. Hội nghị nhận định: chiến
tranh sẽ gieo đau thương cho nhân loại, nhưng cuối cùng sự nghiệp cách mạng của
nhân dân thế giới sẽ chiến thắng chủ nghĩa phát xít; lúc này ở Việt Nam và Đông
Dương, sự thống trị của đế quốc Pháp đã trở thành một chế độ phát xít thuộc
địa, thỏa hiệp đầu hàng phát xít Nhật. Do đó, giải phóng dân tộc khỏi ách đế
quốc, dù là Pháp hay Nhật, trở thành nhiệm vụ cấp bách nhất và là mục tiêu
chiến lược trước mắt của cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở thống nhất những
nhận định và xác định nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn cách mạng mới, Hội
nghị chủ trương tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là
chống đế quốc và ách thống trị của phát xít thuộc địa, Đảng sẽ tiến hành thành
lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ
không còn thích hợp nữa. Khẩu hiệu ruộng đất về tay dân cày lúc này tạm gác
lại, chính sách đề ra là chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và những địa chủ
phản bội quyền lợi của dân tộc. Khẩu hiệu thành lập chính quyền Xô viết công
nông binh được thay thế bằng thành lập chính quyền dân chủ cộng hòa. Để phù hợp
với tính chất cuộc đấu tranh cách mạng trong giai đoạn mới, phương pháp cách
mạng cũng chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ sang đấu tranh trực
tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai, từ hoạt động hợp pháp và nửa
hợp pháp sang hoạt động bí mật và không hợp pháp, chuẩn bị điều kiện để tiến
tới khởi nghĩa vũ trang.
Quyết định thay đổi chiến
lược và thay đổi phương pháp cách mạng trong tình hình mới của Hội nghị Trung
ương 6 là rất đúng đắn, sáng suốt, thể hiện tư duy chính trị nhạy bén, năng lực
sáng tạo lớn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Cừ. Tính kịp thời và đúng đắn về chủ trương thay đổi chiến lược
của Hội nghị Trung ương 6 (11/1939) đã được Trung ương Đảng khẳng định tại Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (11/1940) và bổ sung, hoàn thiện tại
Hội nghị Trung ương 8 (5/1941). Nhờ đó, phong trào cách mạng Việt Nam có bước
phát triển mới mạnh mẽ, tiến tới giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng
Tháng Tám 1945.
2.2. Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Cừ - Nhà lý luận xuất sắc của Đảng
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ là
người có khả năng lý luận sâu sắc và uyên bác. Dưới sự lãnh đạo của Đồng chí,
các vấn đề lý luận và thực tiễn được giải quyết một cách sáng tạo, nhuần
nhuyễn, phù hợp với quy luật vận động khách quan.
Sáng kiến thành lập Mặt
trận dân chủ thống nhất Đông Dương đã cho thấy Đồng chí là người nắm vững chủ
nghĩa Mác-Lênin và quan điểm chỉ đạo của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Từ sự
phân tích khoa học, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và Đảng ta quyết định không áp
dụng mô hình Mặt trận bình dân (kiểu Pháp), cũng không rập khuôn mô hình Mặt
trận dân tộc phản đế (của Trung Quốc) mà thành lập Mặt trận dân chủ thống nhất.
Chỉ có như vậy mới vừa đoàn kết được giai cấp công nhân, nông dân; vừa thu hút
được trí thức và các lực lượng theo xu hướng cải cách dân chủ khác.
Để làm rõ và thống nhất
trong toàn Đảng về quan điểm nêu trên, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm
“Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương”. Trong tác phẩm này, Đồng chí
đã đưa ra và giải thích những khái niệm và phạm trù mang tính lý luận như: “Thế
nào gọi là tự do dân chủ”, “Tự do dân chủ với dân tộc”, “Tự do dân chủ với giai
cấp tư sản”, “Tự do dân chủ với giai cấp vô sản”… Từ việc trả lời những
câu hỏi đó, Đồng chí kết luận: “Xứ Đông Dương hàng thế kỷ ở dưới chế độ phong
kiến, rồi kế đến chế độ thuộc địa áp bức. Chánh sách thuộc địa câu kết với tàn
tích phong kiến để thống trị xứ Đông Dương, nên chi dân xứ này chưa được hưởng
cái mùi tự do dân chủ của hiện đại… Vậy nhân dân Đông Dương muốn có hưởng các
quyền tự do ấy, lẽ tất nhiên phải trải qua tranh đấu”. Đồng chí cũng chỉ ra
hình thức đấu tranh: “Căn cứ theo những tình hình cụ thể đó, chúng ta có thể
dùng phương pháp đấu tranh có tính chất hòa bình - là chính sách lập mặt trận
dân chủ thống nhứt Đông Dương để thực hiện những yêu cầu ấy”. Tác phẩm “Các
quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương” đã luận giải được những vấn đề lý
luận cơ bản, trên cơ sở đó Đảng ta đưa ra những quyết sách chiến lược, sách
lược trong phong trào cách mạng dân chủ.
Năm 1939, trước nguy cơ chủ
nghĩa phát xít và Chiến tranh thế giới thứ hai đang đến gần, chính quyền thực
dân Pháp ở Đông Dương lăm le trở mặt đàn áp phong trào cách mạng, những phần tử
tờrốtkít giả danh cách mạng cũng ra sức chống phá Đảng; trên cương vị Tổng Bí
thư, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tiến hành một cuộc đấu tranh sâu rộng trên mặt
trận lý luận. Bên cạnh việc vạch rõ chân tướng của bọn tờrốtkít với giọng điệu
cách mạng đầu lưỡi của chúng, Đồng chí đã chỉ ra nguyên tắc liên hiệp giữa Đảng
Cộng sản với các đảng khác phái: “Sự liên hệ phải có nguyên tắc, chứ không phải
liên hiệp với cả bọn phản động, bọn khiêu khích tờrốtkít, tay chân phát xít”;
và đối với bọn này: “không thể có thỏa hiệp nào, nhượng bộ nào. Phải dùng mọi
cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt
chúng về chính trị”.
Trên phương diện đấu tranh
củng cố nội bộ, tháng 6/1939, với bút danh Trí Cường, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ
đã viết và cho in cuốn “Tự chỉ trích”, đóng góp quan trọng vào công tác xây
dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lần đầu tiên ở Việt Nam, một Tổng
Bí thư của Đảng đã viết: “Những người cộng sản có bổn phận nói sự thật với quần
chúng, dẫn đường cho quần chúng chớ không phải theo đuôi hay phỉnh họ”. Đồng
chí nhấn mạnh, dù có sai lầm, có thất bại cũng “phải có can đảm mở to mắt ra
nhìn sự thật”. Phê phán những khuynh hướng thiên tả hoặc thiên hữu của một số
cán bộ, đảng viên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ yêu cầu Đảng phải “Công khai, mạnh
dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình mà tìm phương châm sửa đổi, chống
những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng mà là làm
cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ”.
Tác phẩm “Tự chỉ trích” thể
hiện tính minh triết trong tư duy chính trị của một lãnh tụ trẻ tuổi có chiều
sâu trong tư duy; phản ánh sự sáng suốt của một tài năng lỗi lạc, dấu ấn đặc
biệt của một người cộng sản dù mới chỉ được học tập lý luận chủ yếu trong lao
tù đế quốc, nhưng bằng những hoạt động thực tiễn của mình đã khái quát được
những vấn đề lý luận cách mạng hết sức sâu sắc, mang tính thời đại và còn
nguyên giá trị cho đến ngày nay. Đây cũng là sự đóng góp vô cùng to lớn của
Đảng ta trong việc làm giàu hơn kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin từ sự
đúc kết thực tế của phong trào cách mạng Việt Nam.
2.3. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã
cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng, cho lý tưởng cao đẹp của Đảng
và Nhân dân ta. Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Đồng chí là một tấm
gương mẫu mực về phẩm chất cao quý của người cộng sản.
Trước hết, phẩm chất cao
quý ấy thể hiện ở tinh thần say sưa học tập, rèn luyện và vươn lên không ngừng.
Từ lúc bắt đầu hoạt động cách mạng cho đến khi bị thực dân Pháp xử bắn, dù chưa
được học ở trường lớp lý luận nào nhưng bằng niềm tin và nghị lực, Đồng chí đã
trang bị cho mình những hiểu biết sâu rộng về khoa học chính trị và trở thành
lãnh tụ cao nhất của Đảng.
Không quản ngại gian khổ,
hiểm nguy, thông qua thực tiễn đấu tranh để rèn luyện, đồng chí Nguyễn Văn Cừ
đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa thực tế phong phú với lý luận khoa học, giải quyết
đúng đắn những yêu cầu của cách mạng đề ra, nhất là trong những hoàn cảnh khẩn
trương, phức tạp. Trong cuộc vận động dân chủ 1936-1939, Đảng ta gặp nhiều trở
lực, khó khăn: kẻ thù luôn tìm cách đàn áp, bọn tờrốtkít khiêu khích, phá hoại,
một số cán bộ, đảng viên của Đảng bộc lộ những khuynh hướng sai lầm “tả”
khuynh, hữu khuynh trong chiến lược, sách lược, lệch lạc trong nhận thức… Nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã đoàn kết, tạo nên một cao trào cách
mạng sôi nổi với hàng triệu quần chúng tham gia; đặt tiền đề cho cách mạng Việt
Nam bước vào giai đoạn phát triển mới - cao trào vận động giải phóng dân tộc.
Thành công đó có cống hiến to lớn về trí tuệ, tâm huyết của Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Cừ.
Không chỉ là tấm gương sáng
về tinh thần tự học tập, rèn luyện trong thực tiễn, đồng chí còn là hình ảnh
tiêu biểu của người cán bộ cách mạng liên hệ, gắn bó máu thịt với quần chúng.
Bất kỳ ở đâu, sống giữa những người phu mỏ, hay bà con nông dân vùng miệt vườn
Nam Bộ, khi đi “vô sản hóa”, khi mới là đảng viên, hay lúc đã giữ cương vị Tổng
Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Cừ luôn gương mẫu trong cuộc sống; gần gũi, tin
tưởng ở quần chúng; có khả năng tập hợp, đoàn kết, động viên quần chúng tham
gia cách mạng. Đồng chí cũng luôn nêu cao tinh thần bảo vệ Đảng, bảo vệ khối
đoàn kết thống nhất trong Đảng, phát huy tự phê bình và phê bình để xây dựng
Đảng vững mạnh, giữ vững vai trò tiên phong của Đảng, làm cho Đảng thống nhất
về tư tưởng, tổ chức và hành động.
Trước kẻ thù và những phần
tử phản động, Đồng chí luôn kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng. Bị giặc
bắt, qua nhiều trận đòn roi, tra tấn dã man của kẻ thù; mặc dù thể trạng không
được khỏe, bệnh sốt rét biến chứng ngày càng nặng, nhưng Đồng chí vẫn tỏ rõ khí
tiết, nêu cao tinh thần kiên trung. Hình ảnh Đồng chí hiên ngang, lẫm liệt bước
ra pháp trường cùng với nhiều cán bộ lãnh đạo khác của Đảng đã trở thành tấm
gương lớn về thái độ bất khuất trước kẻ thù và khí phách can trường của người
cộng sản.
Khi
được hỏi vì sao Trung ương bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư khi Đồng
chí chỉ vừa 26 tuổi, ít tuổi hơn nhiều so với các đồng chí khác, đồng chí Lê
Duẩn trả lời: Bởi đồng chí Nguyễn Văn Cừ là một trí tuệ lỗi lạc của Đảng, rất
sắc sảo và nhạy bén về chính trị, lại có khả năng đoàn kết, thuyết phục anh em,
là một người cộng sản có phẩm chất đạo đức rất trong sáng, được mọi người kính
phục.
Tuy
tuổi đời và sự nghiệp ngắn ngủi nhưng đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã để lại cho Đảng
và dân tộc ta một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng; về lòng tin mãnh
liệt ở lý tưởng cách mạng cao đẹp, tình thương yêu, quý mến giai cấp công nhân
và Nhân dân lao động; sống giản dị, chan hòa cùng với Nhân dân, vì Nhân dân.
3. Học tập quan điểm tự phê
bình và phê bình của đồng chí Nguyễn Văn Cừ trong tác phẩm “Tự chỉ trích”
Trong hơn 35 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện; đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh
thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Bước vào giai đoạn phát triển mới, bên
cạnh những thời cơ, thuận lợi, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn
gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp.
Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ trong bối cảnh toàn Đảng đang nỗ lực thực hiện tốt
các Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng
viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”; gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021
của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây là dịp để chúng ta học tập tấm gương đạo
đức cách mạng sáng ngời của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, đó là, không
ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, luôn có niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng cách
mạng cao đẹp, yêu thương, gần gũi, hòa mình với giai cấp công nhân và nhân dân
lao động; không quản ngại gian khổ, hiểm nguy, nỗ lực học tập, rèn luyện, nêu
cao tinh thần bảo vệ Đảng, bảo vệ khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, phát
huy vai trò tiên phong của Đảng.
Thành kính và tri ân công
lao, đóng góp của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam; mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần tiếp tục học
tập, vận dụng tinh thần, tư tưởng tự phê bình và phê bình nêu trong tác phẩm
“Tự chỉ trích” góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ. Đó là:
“Chúng ta phải biết nhìn
nhận những khuyết điểm về chủ quan mà chính chúng ta gây ra, chúng ta phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm”.
“…Không phải đặt cá nhân
mình lên trên Đảng, đem ý kiến riêng - dù cho đúng - đối chọi với Đảng, vin vào
một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài
nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm phái chia rẽ trong hàng ngũ Đảng”.
“Phải cần làm cho các đảng
viên giác ngộ, rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm của mình, biết xoay phương hướng
trong những hoàn cảnh khó khăn, nghiêm trọng, biết tự chỉ trích đúng và kịp
thời những khuyết điểm, sai lầm…”.
“Thống nhất tư tưởng, thống
nhất hành động”.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
VẬN
DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH “ĐẢNG LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH" TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
1. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về chuẩn mực đạo đức “Đảng là đạo đức, là văn minh”
Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời đã đáp ứng nguyện vọng bức thiết của lịch sử là: Cứu dân, cứu nước khỏi
vòng nô lệ của thực dân và ách áp bức của phong kiến; giải phóng dân tộc, thực
hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”; đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Mục tiêu hiện nay của
Đảng là đấu tranh thống nhất nước nhà, để thực hiện một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; làm cho cả nước không còn ai bị bóc
lột, xây dựng một xã hội mới, trong đó mọi người được sung sướng, ấm no”. Mục
tiêu đó là đạo đức, là văn minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ
chức lãnh đạo nhân dân ta chống lại ách thống trị của thực dân và ách áp bức
của phong kiến, đấu tranh đòi quyền lợi cho dân nghèo, làm cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, thực hiện quyền tự quyết, quyền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt
Nam, đó là quyền bình đẳng tối thiểu của các dân tộc, các quốc gia trên thế
giới. Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Người viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra
bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Chính vì thế, mà Người luôn quan tâmgiải
quyết quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam một
cách khoa học. Dưới ánh sáng của học thuyết Mác - Lênin, trực tiếp là tư tưởng
vĩ đại của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh hiểu rằng, quyền tự do, bình đẳng và mưu cầu
hạnh phúc là những quyền thiêng liêng, không ai được phép xâm phạm; trong một
đất nước, quyền lợi của mỗi cá nhân bao giờ cũng gắn liền với quyền lợi của cả
dân tộc, đất nước. Nước mất thì nhà tan, nước độc lập thì dân tộc mới độc lập,
con người mới được giải phóng và có tự do đích thực. Đó là một trong những lý
do để Người trở thành chiến sĩ cộng sản đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc ở Việt Nam và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Đó là đạo
đức, là văn minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam
không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: là một Đảng chân chính cách mạng, Đảng trung thành
tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân, của toàn thể dân tộc và nhân dân
Việt Nam. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng
8 năm 1945, nhân dân ta giành được chính quyền, Đảng ta trở thành Đảng cầm
quyền, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, với mục đích
duy nhất là giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc, giải phóng nhân dân khỏi mọi
áp bức, bóc lột, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc. Chính vì vậy, tạiĐại
hội Sản xuất tỉnh Hà Đông (cũ), ngày 7/6/1960, Chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp tục khẳng định: “Đảng ta là một đảng cách mạng, ngoài lợi ích của
công nhân và nông dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác
ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lýdo tồn tại của Đảng là ở đó, đạo đức và văn minh của Đảng cũng là ở đó.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở Chính phủ chăm lo mọi mặt cho đời
sống nhân dân, với tinh thần nhân dân chỉ cảm nhận được quyền của mình trong
một nước độc lập khi ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, mọi người được học
hành. Người ước nguyện: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Với Người, giải phóng con
người, trước hết là giải phóng họ khỏi cái đói, cái rét, cái dốt để giải phóng
dân tộc, chỉ có thoát khỏi thân phận nô lệ, mỗi con người mới lấy lại được phẩm
giá làm người; chỉ giải phóng dân tộc mới góp phần giải phóng của toàn nhân
loại. Chính vì thế, Người đã thức tỉnh ý thức đạo đức dân tộc và nối liền với
đạo đức thời đại mới - đưa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thành một bộ phận của
tinh thần quốc tế. Giá trị văn hóa đạo đức đó đã xác lập chủ nghĩa yêu nước
chân chính, tiếp biến với các giá trị đạo đức tiến bộ của loài người, gạt bỏ
các mặt đạo đức lạc hậu để phát triển giá trị đạo đức mới. Giá trị đạo đức mới chi phối tư tưởng, ý thức đạo đức, các quan hệ ứng xử, các hành
vi đạo đức trong nhân dân. Từ giải quyết quyền con người, quyền dân tộc cơ bản,
Người đã xác lập các giá trị đạo đức một nền đạo đức mới Việt Nam. Việc kết hợp các giá trị đạo đức dân tộc với các giá
trị đạo đức của thời đại đã tạo ra là nền tảng quan trọng của sự tiến bộ xã hội
ở Việt Nam. Đólà đạo đức, là văn minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn coi trọng xây dựng đạo đức của đội ngũ cán bộ. Người rất quan tâm đến
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ văn hóa, am hiểu pháp
luật, thành thạo nghiệp vụ và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm liêm
chính, chí công vô tư, tận tâm, tận lực, trung với nước, hiếu với dân suốt đời
phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người
cho rằng, đạo đức cách mạng sẽ tạo nội lực quan trọng cho quá trình cách mạng,
đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của
cây, ngọn nguồn của sông nước. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”. Đồng thời, Người quan niệm đạo đức cách mạng của
người cán bộ tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công
việc: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm
ấy không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có
tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc
gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng. Người cách mạng phải cần kiệm, cẩn thận, nhẫn nại,
không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói phải làm. Chính vì lẽ đó, Người rất quan
tâm đến việc tu dưỡng đạo đức người cách mạng và cảnh báo tình trạng cán bộ
“dùng của công làm việc tư... Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất
danh giá của mình”, quên cả thanh liêm đạo đức cần phải phê phán mạnh mẽ và
loại bỏ - những công việc đó
là đạo đức, là văn minh của Đảng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
yêu thương con người. Đồng thời, Người luôn coi trọng tình nhân
ái,khoan
dung. Lòng
yêu thương mênh mông, sâu sắc đối với con người không chỉ ở phần tốt đẹp, phần
thiện trong mỗi con người, mà còn ở những con người nhất thời họ có lầm lạc,
còn nhỏ nhen, thấp kém. Người nhắc nhở: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở
trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Đối với
những người lầm đường, lạc lối, người có thói hư, tật xấu…ta phải dùng tình
thân ái mà cảm hóa họ. Người chỉ rõ: “Đối với những người có thói hư tật xấu,
trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng
cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ
không phải đập cho tơi bời. Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục
lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ
chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Chính điều đó đã làm
thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù, đã cảm hoá được nhiều nhân sĩ, trí
thức, kể cả các quan lại cao cấp của chế độ cũ, một lòng một dạ đi theo cách
mạng không quản ngại gian khổ, hy sinh. Đólà
đạo đức, là văn minh của Đảng ta.
Như vậy, đạo đức cách mạng
của Đảng được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát đã trở
thành chuẩn mực đạo đức chung, nền tảng của Đảng và Đảng ta thực sự là đạo đức,
là văn minh.
2. Xây dựng đạo
đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay
Một là, nâng
cao chuẩn mực về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Đây là
một trong những nội dung cơ bản, xuyên suốt, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của
cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm trọn nhiệm vụ cách
mạng được”. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng cần làm tốt việc giáo dục nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên để mỗi tổ chức đảng thực sự
là đạo đức, là văn minh. Bằng nhiều biện pháp linh hoạt, sáng tạo như: Kết hợp
chặt chẽ giữa giáo dục của tổ chức với tự giáo dục của từng cán bộ, đảng viên.
Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên học tập, nghiên cứu nắm vững các
nghị quyết, chỉ thị, quy định của các cấp ủy đảng. Thực hiện có nền nếp, chế
độ sinh hoạt đảng, đề cao tự phê bình và phê bình. Cấp ủy, tổ chức
đảng cần thực hiện đúng các chế độ và cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin cần
thiết cho cán bộ, đảng viên, nhất là về kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ ở cơ quan, đơn vị. Chủ động phát hiện và đấu tranh với những nhận thức
lệch lạc, quan điểm sai trái; ngăn ngừa và khắc phục kịp thời những biểu hiện
thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, phát huy trách
nhiệm tự bồi dưỡng, tự rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ,
đảng viên bằng kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Hai là, nâng
cao chất lượng hiệu quả công tác của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Do đội
ngũ cán bộ, đảng viên là người trực tiếp thực hiện nghị quyết của Đảng, cấp uỷ,
tổ chức đảng các cấp cần phải thường xuyên coi trọng nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, gắn xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tập trung lãnh đạo, triển khai tổ chức thực
hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết về công tác cán bộ và chính sách cán
bộ. Thường xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bổ
nhiệm, luân chuyển cán bộ theo đúng quy định; tăng cường giáo dục, rèn luyện
cán bộ, đảng viên toàn diện, nhất là bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị và
khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Quản lý chặt
chẽ cán bộ, đảng viên trên tất cả các mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức, năng lực, ý thức tổ chức kỷ luật và các mối quan hệ xã hội. Chú trọng rèn
luyện cán bộ, đảng viên thông qua hoạt động thực tiễn. Kết hợp đánh giá, phân
loại chất lượng, khen thưởng, bố trí, sử dụng và thực hiện đúng chính sách cán
bộ. Đồng thời, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ không chỉ
ở nhà trường mà còn ở ngay từng cơ quan, đơn vị. Có như vậy mới nâng cao chất
lượng hiệu quả công tác của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
giai đoạn mới.
Ba là, cán
bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
luôn nhắc nhở: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phả thật
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệ chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày
tớ thật trung thành của nhân dân”. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp
tục giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm
người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân. Đưa việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải trở thành công việc thường
xuyên, hàng ngày của mỗi tổ chức, cá nhân, đơn vị với nhiều nội dung phong phú
và thiết thực, gắn với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Đổi
mới phong cách làm việc, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm túc quy định về
những điều đảng viên không được làm. Động viên, khuyến khích các tổ chức,
cá nhân tích cực phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và hành
vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí để mỗi tổ chức đảng thực sự là đạo đức, là
văn minh.
Bốn là, cán
bộ, đảng viên tích cực, chủ động, rèn luyện mọi lúc, mọi nơi.
Trước
hết, cán bộ, đảng viên tích cực, chủ động, rèn luyện về lập trường, tư tưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”; “Chi bộ
tốt là do các đảng viên đều tốt”. Vì vậy, muốn xây dựng chi bộ tốt nhất thiết
phải bồi dưỡng lập trường vô sản cho đảng viên, phải có ý thức giai cấp, đồng
thời phải có lý luận cách mạng. Cho nên, cần phải chỉnh đốn Đảng, trong đó, coi
trọng khâu kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, theo đó “những phần tử
xấu phải xử trí đúng mức: Cần đuổi ra khỏi Đảng thì đuổi ra, cần cách chức thì
phải cách chức”. Cán bộ, đảng viên tích cực, chủ động, rèn luyện về năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu trong tổ chức đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức đảng là nội dung cơ bản trong công tác xây dựng
đảng, nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng, hiệu quả lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị, là cơ sở để xây dựng Đảng thực sự là đạo đức, là văn
minh. Trước hết, các cấp ủy đảng cần nâng cao năng lực cụ thể hóa và triển khai
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Phải thường xuyên củng cố, kiện
toàn cấp ủy đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ. Coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, gắn xây dựng
đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ
đầu ngành, người đứng đầu các cấp. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám
sát đối với cán bộ, đảng viên. Đổi mới phương pháp, tác phong công tác của cấp
ủy, tổ chức đảng đối với việc bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên.
Cấp ủy, tổ chức đảng chấp
hành nghiêm nguyên tắc, chế độ quy định về quản lý cán bộ, đảng viên. Bằng
nhiều hình thức như: Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý của tổ chức đảng với tự quản
lý của đảng viên, giữa quản lý đảng viên với quản lý cán bộ, giữa quản lý nội
bộ đảng với tổ chức quần chúng tham gia quản lý. Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý
của tổ chức đảng nơi đảng viên công tác với quản lý của tổ chức đảng nơi cư trú
để nắm chắc về lý lịch chính trị, quan hệ gia đình, nhất là những đảng viên có
hoàn cảnh cá biệt để tổ chức đảng có cơ sở đánh giá, nhận xét chính xác. Kết
hợp chặt chẽ và vận dụng linh hoạt các biện pháp của công tác tư tưởng, tổ chức
để giáo dục, rèn luyện đảng viên. Tổ chức tốt việc học tập nâng cao trình độ lý
luận chính trị, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện đảng viên về lập trường tư tưởng,
phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực công tác.
Cán bộ, đảng viên thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống,
chấp hành kỷ luật của tổ chức nơi công tác. Cấp ủy, tổ chức đảng phải kết hợp
kiểm tra, giám sát thường xuyên và kiểm tra, giám sát định kỳ. Chủ động phát
hiện kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng. Phát huy vai trò của các tổ chức quần
chúng tham gia công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Xem xét, xử lý
công minh, chính xác, kịp thời và kiên quyết những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ
luật, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”.
(Theo
tuyengiao.vn)
BAN BIÊN TẬP CỔNG
TTĐT THÀNH PHẦN ĐẢNG ỦY KHỐI