I.
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN THÁNG 12/2021
1.
Chú trọng tuyên truyền Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị;
kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”;
Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều
đảng viên không được làm; Quy định số 41-QĐ/TW ngày 3-11-2021 của Bộ Chính trị
về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Tiếp tục tuyên truyền Kế hoạch
50-KH/ĐUK ngày 28/10/2021 của BTV Đảng ủy Khối cụ thể hóa Kết luận số 01-KL/TW,
ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị và Chuyên đề toàn khóa “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
2.
Tuyên truyền về kết quả Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XV; kết quả Hội nghị Văn
hóa toàn quốc triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và những
nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong bài phát biểu chỉ đạo của đồng chí Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng nhằm tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền
văn hóa của dân tộc.
3.
Tuyên truyền, phổ biến các văn bản: (1) Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 25/11/2021
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phương hướng, nhiệm vụ năm 2022 và chủ đề
công tác năm “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19;
giữ vững đà tăng trưởng; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. (2) Nghị
quyết số 02-NQ/ĐUK ngày 02/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh
về “Tăng cường vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên Khối các cơ
quan tỉnh khi sử dụng mạng xã hội giai đoạn 2021-2025”. (3) Chỉ thị số 10-CT/TW
ngày 25/9/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác khí tượng thủy văn đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (4) Chỉ thị
số 19-CT/TU ngày 29/11/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh.
4.
Tiếp tục tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên, CCVC-LĐ
trước các luận điệu xuyên tạc, thông tin sai trái phát tán trên mạng xã hội,
internet của các phần tử xấu, các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước,
chia rẽ khối đoàn kết dân tộc… đấu tranh phản bác các thông tin sai sự thật,
gây hoang mang dư luận. Tiếp tục tuyên truyền khẳng định chủ quyền biển đảo,
các thành tựu dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo của Việt Nam.
5.
Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt đến cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm các chỉ
đạo của Tỉnh ủy về công tác phòng, chống dịch COVID-19, trong đó chủ trương
kiên trì thực hiện có hiệu quả phương châm “3 trước”, “4 tại chỗ”, từ xa, từ sớm,
từ cơ sở; chủ động, sẵn sàng vừa phòng, chống dịch hiệu quả, xử lý nhanh gọn mọi
tình huống nảy sinh, vừa ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, bản đảm an dân,
an sinh, trật tự, an toàn xã hội.
6.
Tuyên truyền kỷ niệm chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị của đất
nước, của tỉnh, của ngành, cơ quan, đơn vị trong tháng 12: 75 năm ngày toàn quốc
kháng chiến (19/12); 61 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam (20/12); 77 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam và 32 năm
ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12); Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Quảng Ninh lần
thứ XII, nhiệm kỳ 2021 - 2026…
II.
MỘT SỐ NỘI DUNG QUAN TRỌNG VÀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA QUY ĐỊNH SỐ 41-QĐ/TW
Ngày
3/11/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 41-QĐ/TW về việc miễn nhiệm, từ
chức đối với cán bộ. Đây là Quy định mới thay thế Quy định số 260-QĐ/TW, ngày 2/10/2009
của Bộ Chính trị.
So
với quy định số 260-QĐ/TW, Quy định số 44-QĐ/TW đã có nhiều nội dung quan trọng
cũng như những điểm mới tạo bước đột phá mới, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong
xử lý cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Sự
cần thiết ban hành mới Quy định số 41-QĐ/TW thay thế Quy định số 260-QĐ/TW ngày
2-10-2009 của Bộ Chính trị
Qua
hơn 10 năm thực hiện Quy định số 260-QĐ/TW ngày 2-10-2009 của Bộ Chính trị,
chúng ta đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, góp phần nâng cao nhận
thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về việc cho thôi giữ chức
vụ, miễn nhiệm và từ chức đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người
đứng đầu; sàng lọc, thay thế những cán bộ làm việc kém hiệu quả, yếu về năng lực,
trách nhiệm, không đáp ứng được yêu cầu công việc, kém về phẩm chất đạo đức mà
không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, hết tuổi công tác; từng bước
nâng cao chất lượng, hiệu quả và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp.
Tuy
nhiên, qua thực hiện Quy định số 260-QĐ/TW, đến nay, nhiều nội dung không còn
phù hợp với thực tiễn, chưa cập nhật một cách đầy đủ các chủ trương, quy định mới
của Đảng về công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII; đồng thời,
có nhiều vấn đề chưa bảo đảm tính đồng bộ, liên thông, thống nhất giữa quy định
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Vì
vậy, Bộ Chính trị ban hành Quy định mới về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán
bộ thay thế Quy định số 260-QĐ/TW là vấn đề hết sức cần thiết, nhằm đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; khắc phục những bất cập, vướng mắc trong tổ chức thực hiện và cập nhật
một cách đầy đủ các quy định mới của Đảng về công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu,
đòi hỏi của thực tiễn đặt ra trong tình hình mới.
Những điểm mới trong Quy định số
41-QĐ/TW so với Quy định số 260-QĐ/TW
Điểm
mới nổi bật của Quy định lần này là việc Bộ Chính trị đã quy định hai hình thức
“miễn nhiệm” và “từ chức” đối với cán bộ và áp dụng trong phạm vi đối với cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị.
Theo
đó, về miễn nhiệm đối với cán bộ, Bộ Chính trị quy định: Cấp có thẩm quyền quyết
định cho cán bộ thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ
nhiệm do không đáp ứng được yêu cầu công việc, uy tín giảm sút, có vi phạm
nhưng chưa đến mức xử lý kỷ luật cách chức.
Bộ
Chính trị đã quy định việc từ chức của cán bộ khi cán bộ tự nguyện xin thôi giữ
chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm và được cấp có thẩm
quyền chấp thuận, khi có đủ căn cứ theo quy định của Bộ Chính trị; chủ yếu do
cán bộ hạn chế về năng lực, trách nhiệm hoặc không còn đủ uy tín để hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ được giao; hoặc để cơ quan, đơn vị mình quản lý, phụ trách
xảy ra sai phạm nghiêm trọng, hoặc có thể vì những lý do chính đáng khác của cá
nhân.
Về
thẩm quyền xem xét miễn nhiệm, từ chức được thực hiện theo quy định về phân cấp
quản lý cán bộ. Quy định đã xác định rõ: Cấp có thẩm quyền bổ nhiệm, giới thiệu
cán bộ ứng cử theo quy định thì có thẩm quyền xem xét cho cán bộ miễn nhiệm, từ
chức. Đối với cán bộ thuộc thẩm quyền quyết định của cấp trên thì cấp ủy, tổ chức
đảng, tập thể lãnh đạo báo cáo cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ đề xuất việc cho
miễn nhiệm, từ chức. Cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, cơ quan, đơn vị cấp
trên có quyền yêu cầu cấp dưới xem xét, thực hiện việc miễn nhiệm, từ chức đối
với cán bộ khi có đủ căn cứ theo Quy định của Bộ Chính trị.
Quy
định lần này đã xác định rất rõ những căn cứ và quy trình để xem xét cho miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Căn cứ về việc miễn nhiệm, từ chức trong Quy định
mới đã cơ bản bao quát đầy đủ các tình huống đặt ra trong thực tiễn và kịp thời
động viên, khuyến khích để cán bộ chủ động từ chức; mặt khác quy định đã cụ thể
về cấp có thẩm quyền cho cán bộ miễn nhiệm, từ chức; chính sách động viên khi
cán bộ thôi giữ chức vụ, từ chức. Căn cứ xem xét miễn nhiễm, từ chức đối với
cán bộ được sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa, cập nhật được các quy định mới của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Về quy trình
xem xét cho cán bộ miễn nhiệm, từ chức đã được rút ngắn thời gian và thống nhất
thành một quy trình để thuận lợi trong tổ chức thực hiện. Yêu cầu đặt ra là, phải
kiên quyết, kịp thời cho miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ khi có đầy đủ căn cứ
theo Quy định của Bộ Chính trị và tuyệt đối không được thực hiện việc cho từ chức
đối với cán bộ thuộc trường hợp phải miễn nhiệm.
Quy
định xác định rõ việc miễn nhiệm, từ chức liên quan đến trách nhiệm người đứng
đầu khi để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách hoặc để cấp dưới trực
tiếp xảy ra tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng và rất nghiêm trọng. Nếu người đứng
đầu lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho
tham nhũng, tiêu cực thì tùy theo tính chất, mức độ của sai phạm để xem xét cho
từ chức.
Như
vậy, Quy định mới của Bộ Chính trị về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lần
này đã thể hiện quyết tâm chính trị rất cao, tạo bước đột phá mới, nhằm siết chặt
kỷ luật, kỷ cương trong việc xử lý cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là đối
với người đứng đầu vi phạm quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Quy
định việc xem xét miễn nhiệm, từ chức liên quan đến trách nhiệm của người đứng
đầu khi cấp có thẩm quyền kết luận để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ
trách xảy ra tham nhũng, tiêu cực
Quy
định của Bộ Chính trị nêu rõ: việc xem xét miễn nhiệm, từ chức liên quan đến
trách nhiệm của người đứng đầu khi cấp có thẩm quyền kết luận để cơ quan, đơn vị
thuộc quyền quản lý, phụ trách xảy ra tham nhũng, tiêu cực; căn cứ vào 1 trong
3 trường hợp sau: Một là, miễn nhiệm đối với người đứng đầu khi để cơ
quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách hoặc cấp dưới trực tiếp xảy ra tham
nhũng, tiêu cực rất nghiêm trọng; hai là, người đứng đầu lợi dụng chức
vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực
thì tuỳ tính chất, mức độ sai phạm để xem xét cho từ chức; ba là, cho
từ chức đối với người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ
trách hoặc cấp dưới trực tiếp xảy ra tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng.
Quy
định số 41 của Bộ Chính trị ban hành vào thời điểm ngay sau Hội nghị Trung ương
4 khóa XIII ban hành Kết luận số 21 về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm những cán bộ suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa, có
ý nghĩa nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu,
cán bộ, đảng viên đối với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Tập trung phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức; Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác phát
hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực tại địa phương, cơ sở; Tăng cường thanh tra,
kiểm tra, giám sát người đứng đầu thực hiện trách nhiệm trong phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực. Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng.
Trách nhiệm các cơ quan liên quan trong
tổ chức thực hiện Quy định số 41-QĐ/TW
Quy
định số 41-QĐ/TW, ngày 3-11-2021 của Bộ Chính trị đã quy định rất rõ trách nhiệm
trong tổ chức thực hiện đối với các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung
ương và các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn,
lãnh đạo cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương. Các đơn vị trên có trách nhiệm
chỉ đạo, cụ thể hóa các nội dung của quy định phù hợp với từng cơ quan, đơn vị
thuộc thẩm quyền quản lý theo phân cấp và bảo đảm không được trái với Quy định
của Bộ Chính trị.
Quy
định cũng đã giao cho Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ có trách
nhiệm chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định pháp luật
có liên quan. Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan được Bộ Chính trị giao chủ trì,
phối hợp với các cơ quan liên quan để theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
Quy định này, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị.
Theo xaydungdang.org.vn
TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ - TRỌNG TÂM CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
Tư
tưởng chính trị là nhân tố hàng đầu tạo niềm tin, sự đồng thuận xã hội. Vì thế,
các thế lực chống phá, thù địch luôn xác định đây là mắt xích, mũi đột phá quan
trọng cần tập trung tấn công.
Luận điệu chống phá
Tư
tưởng chính trị bàn ở đây là tư tưởng về vấn đề chính trị mà Đảng Cộng sản Việt
Nam tổ chức, xây dựng xã hội của dân, do dân và vì dân. Lập trường này được
C.Mác cùng F.Ăngghen xây dựng trên cơ sở sự vận hành và phát triển của các hình
thái kinh tế xã hội trong hiện thực lịch sử nhân loại. Đó là học thuyết vĩ đại
của xã hội loài người-học thuyết khoa học về chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đó
cũng chính là tư tưởng chính trị then chốt; là yếu tố quan trọng hàng đầu
cần được xác lập một cách vững vàng trong mỗi chủ thể của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Tư
tưởng chính trị là nhân tố hàng đầu tạo niềm tin, sự đồng thuận xã hội. Vì thế,
các thế lực chống phá, thù địch luôn xác định đây là mắt
xích, mũi đột phá quan trọng cần tập trung tấn công. Trong cuốn
sách Chiến thắng không cần chiến tranh (1999), Níchxơn đã viết: “Mặt
trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”, “vũ khí của chúng ta, các hoạt động
mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại
trên mặt trận tư tưởng”.
Theo
đó, những chiêu bài về “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn
giáo” hay “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN)”… mà các thế lực thù địch vẫn không ngừng “lớn tiếng”
lâu nay cũng chỉ nhằm hướng tới một mục tiêu: phủ nhận những vấn đề căn
cốt - nền tảng tư tưởng chính trị của chúng ta.
Một
là, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Các
thế lực thù địch, phản động, chống phá vẫn luôn tự cho họ “cái quyền” đòi
Đảng ta, nhân dân ta từ bỏ mục tiêu, con đường đã chọn với “lỹ lẽ” rằng đó là
“con đường sai lầm, dẫn dân tộc đến đường cùng, ngõ cụt”. Họ ra sức lợi dụng
sự kiện CNXH theo mô hình Xô viết ở Liên xô và các nước Đông Âu trước đây sụp đổ
để “kết luận” rằng CNXH đã cáo chung, Đảng Cộng sản đã hết vai trò lịch sử; rằng
Việt Nam kiên định đi lên CNXH là sai lầm, là đi vào “vết xe đổ” Liên Xô và
Đông Âu. Họ cố tình xuyên tạc: “Chủ nghĩa xã hội mà C.Mác nêu ra chỉ là một lý
tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”; không bao giờ thực hiện được”. Hơn
thế, họ “dạy” Đảng ta cần phải đi theo con đường - mô hình “xã hội dân chủ”,
“chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối lập”... Đồng thời không ngừng rêu rao, kích
động, bôi đen chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN, cho rằng, kinh tế thị trường với CNXH như lửa với nước, không thể đồng
hành, từ đó phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước, đòi tư nhân hóa đất đai…
Những
luận điệu nêu trên vẫn thường được “nhai đi nhai lại” khi trắng trợn, lúc tinh
vi; lúc thì “mượn mồm” của một số người biến chất, bất mãn, khi thì thô lỗ nhân
danh, khoác áo “những nhà chính trị”, “tổ chức nọ”, “hội kia”. Tuy giọng điệu,
cung bậc khác nhau, song đều chung một kiểu “mưa dầm thấm lâu”, nhằm làm cho quần
chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin chính trị.
Để
tạo sức “đề kháng” trước những “cơn gió độc”, bên cạnh không ngừng củng cố bản
lĩnh và sự kiên định của mỗi công dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng
viên vào mục tiêu, con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, chúng
ta cần tiếp tục thấu triệt: 1) Sự thay thế của hình thái kinh tế XHCN vào
hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa là sự tiếp nối tất yếu trong dòng chảy phát
triển. Vấn đề này đã được khẳng định bằng chính quá trình phát triển của lịch sử
nhân loại. 2) Thực tiễn tiến trình cách mạng Việt Nam dưới ngọn cờ của Đảng đã
và đang minh chứng “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”(1). “Kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”(2) là sự kiên định khoa học, khách quan,
đúng đắn, phù hợp, đang từng bước thỏa mãn khát vọng chính đáng của nhân dân: độc
lập, hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc. 3) Những nhà tài phiệt của chủ nghĩa tư
bản luôn muốn duy trì sự bất bình đẳng của xã hội để thâu tóm lợi ích. Vì thế,
bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân lao động không phải
là mục tiêu mà họ hướng tới, không phải là bản chất chế độ mà họ muốn duy
trì.
Hai
là, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vẫn
“quanh đi quẩn lại” với những “diễn giải” như, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời,
chỉ phù hợp với trình độ, lực lượng sản xuất phương Tây thế kỷ XIX; ở thế kỷ
XXI, chủ nghĩa này đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua... từ đó, những thế lực
chống phá, phản động luôn “to mồm” rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không phù hợp với
Việt Nam; việc du nhập chủ nghĩa này vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ
đưa đến tai họa vì đây là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc...
Cùng với đó, họ không ngừng xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như
cuộc đời và sự nghiệp của Người; bóp méo sự thật công cuộc đổi mới ở Việt
Nam... Những “giọng điệu” đó đều không nằm ngoài mục đích: phủ định sự vận dụng
sáng tạo tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam;
phủ nhận nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây
dựng xã hội của dân, do dân và vì dân.
Để
phản bác lại những “lập luận” nêu trên, chúng ta cần không ngừng nắm rõ, hiểu
sâu, củng cố lại nhận thức: 1) Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống các quan điểm
và học thuyết khoa học do C.Mác và Ph.Ăng-ghen xây dựng, V.I.Lênin bảo vệ và
phát triển, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, bổ sung trong điều kiện cụ thể một
nước thuộc địa, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu; được hình thành và phát triển
trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại;
là thế giới quan phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn
cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân
dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
2) Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, chủ nghĩa
Mác - Lênin đã chỉ ra những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy
luật của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa. 3) Xây dựng CNXH ở Việt Nam là kết quả tất nhiên của sự
vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học, kinh tế chính trị Mác -
Lênin, CNXH khoa học vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. 4) Trên cơ sở quan
điểm “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin”(3), Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng trong quá trình trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, cùng toàn dân xây
dựng một xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ba
là, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hết
năm này qua năm khác, các phần tử, tổ chức phản động, thù địch vẫn không ngừng
ra rả những luận điệu “rườm tai” như “Đảng Cộng sản chưa bao giờ chứng tỏ có khả
năng quản trị đất nước”; “chế độ một đảng lãnh đạo, cầm quyền là trái với
nguyên tắc nhà nước pháp quyền, khiến xã hội không có tự do, dân chủ”; “từ bỏ độc
quyền lãnh đạo là then chốt của chế độ dân chủ”... Đồng thời, họ dẫn những quan
điểm “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập; đồng nhất nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá
nhân...
Một
số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị ở trong nước cũng thường “vào hùa” “ăn
theo”, khi thì nhân danh “quyền công dân”, khi thì gắn mác “tâm nguyện vì nước
vì dân” để đưa ra những “yêu sách” kiểu như: Đảng phải “thay đổi Cương lĩnh xây
dựng đất nước”, phải “chuyển đổi thể chế chính trị”...
Tất
cả những “kiểu cách” nêu trên, dù được ngụy trang bằng những mỹ từ nào đi nữa,
thì bản chất và mục đích vẫn là nhằm làm phân tâm, tạo hoài nghi trong xã hội,
thúc đẩy “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong cán bộ đảng viên, để từ đó phủ nhận
nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, làm “nhiễu loạn” mọi hệ giá trị, tiến tới
phủ nhận chế độ, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Do
đó, việc nắm chắc những nội dung căn cốt về tư tưởng chính trị là “vũ khí” quan
trọng nhất để mỗi chúng ta chiến thắng chính mình - vượt qua những mơ hồ, hoài
nghi, dao động; đồng thời đấu tranh phản bác có hiệu quả với những giọng điệu
“ngụy dân chủ”, “ngụy lý luận”.
Về
phương diện lý luận, vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền trong thời ký quá độ đi lên
CNXH là một trong những nội dung quan trọng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu
lịch sử đương đại, Mác và Ăng-ghen chỉ ra rằng, trong các xã hội có giai cấp và
đấu tranh giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực nhà nước sẽ trở thành
giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Kế thừa những
di sản tư tưởng chính trị cơ bản đó, V.I.Lênin đã phát triển và có những luận
điểm sâu sắc, trong đó khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết
bảo đảm cho công cuộc xây dựng CNXH thành công. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
trong quá trình đi tìm “lời giải cho bài toán” cách mạng Việt Nam đã nhận thấy:
cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...
Về
phương diện thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức và hoạt động chặt chẽ
theo tư tưởng, nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những
kết quả đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hơn 35 năm qua là
câu trả lời chính xác, khoa học nhất về vai trò lãnh của Đảng trên cơ sở kiên định,
vận dụng, phát triển sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Buông
lỏng hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng là phạm sai lầm từ nguyên tắc, là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân, nguy cơ của mọi nguy cơ dẫn đến thủ tiêu sức mạnh
của nhà nước và hệ thống chính trị, tạo điều kiện cho chủ nghĩa cơ hội trỗi dậy.
Đảng lãnh đạo là sự lựa chọn khách quan của
lịch sử
Cần
khẳng định lại rằng, những “lý lẽ” mà các đối tượng, thế lực chống phá luôn rêu
rao, đòi hỏi đối với Đảng và chế độ ta là những điều hoàn toàn không có gì mới,
nhất là vấn đề “đa nguyên đa đảng”.
Như
chúng ta đã biết, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam khai sinh, ở nước ta đã từng
có mô hình “đa nguyên đa đảng”. Ngay cả khi Đảng ta ra đời thì “đa đảng” vẫn tồn
tại. Nhưng từ chính những đòi hỏi khách quan của lịch sử mà cách mạng đã lựa chọn
từ “đa đảng” đến một đảng. Đó là xu hướng chính trị gắn liền với hoàn cảnh lịch
sử và điều kiện cụ thể Việt Nam. Để khắc phục tình trạng “độc quyền mất dân chủ”,
trong suốt tiến trình cách mạng, mọi đường lối, phương thức lãnh đạo của Đảng đều
được bàn thảo, xây dựng trên cơ sở ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Vì
thế, chúng ta khẳng định, ở Việt Nam không có sự cần thiết khách quan phải thực
hiện cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Hơn lúc nào hết, trong tình
hình hiện nay, nếu “thỏa hiệp” để thực hiện đa đảng đối lập cũng đồng nghĩa với
việc đánh mất sự ổn định chính trị, rối loạn xã hội; tạo điều kiện cho sự trỗi
dậy của các tư tưởng chính trị xa lạ - đi ngược lại lợi ích của quảng đại quần
chúng và mục tiêu xây dựng xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều
mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh: “tại các nước tư bản phát
triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính
phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng
trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”.
Đại
hội XIII của Đảng cũng đã xác định: “Kiên định và vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định
các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa”.
Để
đấu tranh có hiệu quả với những luận điệu thù địch nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng
chính trị của Đảng một cách đúng đắn, khách quan và khoa học, trước hết, mỗi
cán bộ, đảng viên phải nắm vững và thường xuyên củng cố nhận thức về chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tăng cường tuyên truyền “phổ cập” tới mọi tầng
lớp nhân dân về mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Qua đó tạo lập một mặt bằng
chung trong toàn xã hội về ý thức tư tưởng chính trị; nâng cao khả năng “tự miễn
dịch” trước những âm mưu xâm nhập, lây lan của những tư tưởng đi ngược lợi ích
nhân dân, trái với lý tưởng và mục tiêu XHCN.
Nghiêm
túc quán triệt và thực hiện việc “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức
công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng
cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính giáo dục trong tuyên truyền, học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục
lý luận chính trị, học tập Nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng
lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, đặc biệt là cấp chiến lược; tiếp tục đổi mới hệ thống chương
trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú
trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.
Đấu
tranh chống “diễn biến hòa bình” nói chung, chống các quan điểm sai trái, thù địch
nói riêng chỉ phát huy hiệu quả thực chất khi việc chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ Đảng thực sự có chất lượng. Theo đó,
sự gương mẫu “nói đúng làm đúng” từ mỗi cán bộ đảng viên là cách tốt nhất để
lan tỏa những quan điểm, chủ trương của Đảng tới mọi “ngõ ngách cuộc sống”, để
mọi tầng lớp nhân dân luôn “tâm phục khẩu phục”, một lòng theo Đảng, bảo vệ Đảng,
bảo vệ chế độ./.
(Theo tuyengiao.vn)
Về
thẩm tra lý lịch quần chúng
Hỏi:
Quần chúng Nguyễn Văn A làm hồ sơ xin vào Đảng, có cha đi thăm con làm ăn ở nước
ngoài kết hợp với du lịch 10 tháng, vậy khi thẩm tra lý lich của quần chúng Nguyễn Văn A có cần thẩm tra thời gian
cha đi du lịch ở nước ngoài không?
Trả
lời: Đối với trường hợp quần chúng làm hồ sơ xin vào Đảng, có cha đi thăm con
làm ăn ở nước ngoài kết hợp với du lịch 10 tháng hiện nay đã về nước thì việc
thẩm tra lý lịch như sau: Nếu cha của quần chúng là đảng viên thì thực hiện
theo Quy định số 228-QĐ-TW ngày 7/2/2014 của Ban Bí thư quy định về nhiệm vụ của
đảng viên và công tác đảng viên ở nước ngoài; nếu cha của quần chúng không là đảng
viên thì căn cứ theo điểm 3.4c, Hướng dẫn số 01-HD/TW ngày 20/9/2016 của Ban Bí
thư hướng dẫn một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng để cấp ủy có thẩm quyền
đến cơ quan an ninh có trách nhiệm quản lý, theo dõi tổ chức đó để thẩm tra.
(Theo Tạp chí Xây dựng Đảng)